Top 10 địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng tại Uông Bí, Quảng Ninh

Chùa Lôi Âm

Chùa Lôi Âm là một điểm du lịch tâm linh vô cùng độc đáo của Quảng Ninh. Nằm cách TP. Uông Bí khoảng 5km, rất thuân tiện di chuyển cho các bạn khi đến du lịch tại TP. Uông Bí – TP tâm linh. 

Chùa Lôi  Âm thuộc phường Đại Yên, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Ngôi chùa tọa lạc ở khoảnh đất bằng phẳng, rộng lớn, trên lưng dãy núi Lôi Âm cao 503m, như một cao nguyên. Sau chùa có giếng Tiên, bốn mùa trong xanh. Suối giải oan, từ đỉnh núi chảy xuống đến chùa chia làm hai nhánh. Gần chùa Lôi Âm có chùa Hang ( còn gọi là lầu Cậu) một phiến đá tự nhiên diện tích 8,5m2, cao 2,2m, chìa ra như ngôi nhà một mái, từ xa nom giống con kỳ đà khổng lồ. Từ chân núi, qua 7 ngọn đèo gồm: 2 ngọn dốc thoải, 5 ngọn đứng hơn; 1 đoạn dốc ngược; một con đường mòn uốn lượn, trong cánh rừng thông và rừng nguyên sinh, gọi là đường Chúa Ngự dài trên 850m, đưa chân du khách đến cửa chùa.

Chùa Lôi Âm nhìn ra vựng sông Hốt, ven vịnh Hạ Long. Ngày trước, thuyền cập bến sông Yên Lập, du khách chỉ qua thung lũng Vạn Nho rồi leo núi, lên chùa. Thung lũng Vạn Nho nguyên là một vùng đất trù mật của 2 thôn: Vạn Nho và Nghĩa Lộ, có dòng sông Yên Lập uốn quanh, nay chìm sâu dưới lòng hồ Yên Lập. Du Khách đến chùa Lôi Âm, phải đi đò qua mặt hồ Yên Lập. Hồ Yên Lập rộng 182,6km2, độ sâu trung bình 29,5m, chỗ sâu nhất tới 40m, chứa 128.000.000 m3 nước, cấp nước sinh hoạt, trồng cấy cho một số phường xã của thị xã Quảng Yên và thành phố Hạ Long, thành phố Uông Bí. Chính tuyến đường thủy này lại tạo thêm nét đẹp sinh thái, đường đến cửa thiền. Thuyền lướt trên mặt nước trong xanh, qua đảo Canh, hòn Cua… trong long hồ Yên Lập.

Đặc biệt tại chùa còn có món gà Lôi Âm vô cùng nổi tiếng, níu chân du khách đến tham quan. Sẽ là một trải nghiệm vô cùng thú vị phải không nào.  

Chùa Lân – Yên Tử

Chùa Lân (Long Động Tự) hay còn được gọi là Thiền Viện Trúc lâm Yên Tử thuộc địa phận thôm Nam mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Đây là một trong số các ngôi chùa thuộc quần thể núi Yên Tử, là điểm dừng chân của nhiều du khách, phật tử về hành hương tại Yên Tử. Tục truyền rằng đây là nơi rồng ở nên được đặt tên là Động Rồng, đây cũng là nơi đầu tiên Vua Trần Nhân Tông dừng chân khi đến tu hành tại Yên Tử.

Sau khi về tu tại đây, Phật hoàng đã cho xây dựng lại Chùa Lan khang trang hơn, qua nhiều lần trùng tu chùa được mang diện mạo như ngày nay là nơi giảng đạo, độ Tăng. Ngõ chùa được lát đá, hai bên thảm đá là hai hàng tháp cổ.Còn lại mười chín ngôi tháp đá và gạch. Nhiều ngôi tháp vẫn còn khá nguyên vẹn. Trong tháp có bia ghi lại hành trạng của các bậc thiền sư khả kính tu hành ở chùa Lân, chủ yếu vào thời Lê. Ví như các tháp: Giao Quang, Hiếu Từ, Từ Ân, Phù Ty, Phổ Minh, Nhã Thừa, Liên Phương và Bảo Quang…Sân chùa còn ba ngôi tháp cổ. Trước sân Thiền Viện đặt một quả cầu “Như ý báo ơn Phật tổ” được xác lập kỉ lục là Quả cầu Như ý lớn nhất Việt Nam. 
Chính điện vô cùng uy nghi với 9 bức phù điêu , sau đó là Nhà Tổ với kiến trúc độc đáo. 

Toàn bộ khung cảnh chùa là một tổng thể hài hòa của thiên nhiên và kiến trúc nhân tạo của con người, cảnh sắc hữu tình của địa thế chùa, cây cối cùng với kiến trúc cổ kính tạo sự linh thiên thể hiện sự báo ơn Phật Tổ. Trong các chùa ở Yên Sơn thì chùa Lân có diện tích lớn nhất cũng có kiến trúc độc đáo và được tôn tạo tốt nhất thu hút rất nhiều khách du lịch đến thăm quan và phật tử về lễ Phật, cầu an. 

Chùa có rất nhiều đại lễ tổ chức lớn, phát cơm chay miễn phí rất ngon, cùng với đó là các khóa tu để phổ độ chúng sinh, thanh tinh tâm hồn được tổ chức thường xuyên. 
Đây sẽ là một điểm đến thú vị trước khi ghé vào Vân Yên. 

Chùa Một Mái

Chùa Một Mái ngự trên sườn núi nhỏ cách chùa Hoa Yên khoảng 500m về phía bên trái, nép mình bên sườn núi ở vị trí cao giữa lưng trời, một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài chỉ có một phần mái, đúng như tên gọi của chùa. Chùa xưa vốn là động Thanh Long, tương truyền Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông lập am Ly Trần (thoát cõi trần) để làm nơi đọc sách, soạn kinh. Sau khi đức Điều Ngự viên tịch, am xưa được dựng thành ngôi chùa Bồ Đà, một nửa mái chùa là vòm động, một nửa mái chùa phô ngoài trời nên chùa có tên là Bán Thiên, Bán Mái, ngày nay gọi là chùa Một Mái. Toàn bộ kiến trúc chùa Một Mái được làm bằng gỗ, cao hơn đầu người chút ít, nửa trong của chùa là ngách hang, nửa còn lại được dựng bằng gỗ phần mái chỉ có một bên. Chùa có kích thước dài: 9,6m; sâu: 1,7m; chạm thượng lương: 2,3m; từ nền chùa đến xà: 1,55m; nửa vì mái rộng 0,9m; chia làm bốn gian, hệ thống tường bao phía trước là những ván gỗ ghép lại với nhau.Không gian chùa hẹp với gian ngoài là mái vòm hang động, trong ngách hang có một núm đá, nước cứ nhỏ dần từng giọt một cả đêm chưa đầy một bát con. Ở trên vòm Động còn có một lỗ thủng trông nham nhở. Các gian thờ chính trong chùa gồm 3 gian tương ứng với 3 ban thờ được bố trí từ ngoài vào trong, gồm ban thờ Tổ (gồm 3 pho Tam Tổ ở giữa, bên trái là tượng Đức Ông, bên phải là tượng Tổ, hai bên hồi của ban và đằng sau tượng Tam Tổ còn có 3 tấm bia đá khắc chữ để lưu giữ những sự kiện, nhân vật đời trước có liên quan đến chùa), ban thờ Tam bảo (gồm 3 pho Tam thế, 1 pho Thích ca, 1 pho tượng Phật và 1 pho tượng Mẫu), ban thờ hậu phía trong cùng thấp hơn hai ban ngoài (gồm 1 bia đá khắc năm Bảo Đại – 1936 và một số đồ thờ khác).
Đây là nơi khởi nguồn của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chùa Trình (Chùa Bí Thượng)

Mở đầu cho cuộc hành hương về Yên Tử là Chùa Trình (hay còn gọi là Chùa bí Thượng). Tục rằng chùa Trình là nơi trình báo mỗi khi ghé thăm Yên Tử. Chùa tọa lạc trên sườn đồi của làng Bí Thượng cũ, nay thuộc phường Phương Đông, TP.Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh là nơi vua Trần Nhân Tông nghỉ ngơi trước khi bước vào vùng núi Yên Tử. 

Chùa Trình (chùa Bí Thượng) được khởi dựng từ thời Hậu Lê, có hướng Tây Nam, qui mô kiến trúc kiểu chữ “Nhất” (-), chiều Đông Tây rộng 4,4m; chiều Nam Bắc rộng 5m. Cấu trúc khung cột gỗ kê trên chân tảng đá kiểu hai vì chính, hai vì phụ. Hai vì chính cách nhau 2,8m, vì phụ cách vì chính 0,8m.

Kiến trúc của chùa kiểu “nội công ngoại quốc”, có Tiền đường, Chính điện thờ Phật, Tả vu, Hữu vu thờ Thập Bát La Hán, có nhà Tổ, thờ Tam Tổ Trúc Lâm, Ban Trần Triều, thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, Tam Vương theo tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Việt. Các pho tượng được đúc bằng đồng và tạc bằng gỗ Mít, gỗ Hương. Chùa được lợp ngói mũi hài. Trên bờ nóc Tiền đường đắp hàng gạch hoa Chanh, chính giữa đắp nổi bức Đại tự ghi ba chữ Hán “Bí Thượng Tự” (Chùa Bí Thượng), hai đầu nóc mái có hình đầu Rồng nổi ngậm bờ nóc, có sóng nước vân mây, các góc mái có đầu Rồng uốn cong hình sóng nước, vân mây vút lên.

Chùa Trình là nơi thể hiện lễ nghi “đi trình về tạ” của tín ngưỡng Phật giáo. Hiện nay , chùa được xây dựng và tu bổ, mở rộng ngày càng lớn thể hiện sự uy nghiêm và tráng lệ của cửa ngõ nhà Phật, bộ mặt của Thành phố tâm linh.

Chùa Hang Son

         Chùa Hang Son là một điểm du lịch tâm linh nhất định bạn phải ghé qua dịp đầu xuân. 

Cụm di tích đền chùa Hang Son là 1 trong 3 di tích cấp tỉnh của TP.Uông Bí, chùa thờ thần Bát Hải Đại Vương – tương truyền vì cứu dân làng thoát khỏi hạn hán, đã phạm phải luật trời khi làm phép cầu mưa, đưa nước về đồng ruộng. Sau khi làm phép, do quá kiệt sức ngài đã chết rồi hóa thân thành cá chép trôi về trú tại động Hang Son. Để tưởng nhớ công lao của người, nhân dân địa phương đã lập đền thờ tại Hang Son và tôn là Bát Hải Đại Vương.Nơi đây cũng chính là nơi vị tướng tài ba Trần Hưng Đạo làm lễ tạ ơn sau chiến thắng quân Nguyên – Mông trên sông Bạch Đằng.Vào cuối thế kỷ XVI, Hang Son không những có ngôi đền thờ Bát Hải Đại Vương mà còn thờ Phật.  
     Cũng từ đó Hang Son:  thờ Thần và thờ Phật. Đây là sự kết hợp giữa tín ngưỡng dân gian cùng phật giáo của cư dân vùng sông nước nông nghiệp với đạo pháp “Sống tốt đời đẹp đạo”.Mỗi năm chùa Hang Son đều có lễ hội lớn mừng xuân.Mở đầu phần khai hội chùa Hang Son là màn trống hội và màn biểu diễn võ thuật cổ truyền, sau đó là diễn xướng tích chèo sự tích Hang Son do các nghệ sỹ thuộc đoàn chèo Quảng Ninh biểu diễn kể về sự tích hình thành nên đền Hang Son, đồng thời cũng thể hiện sự tri ân công ơn người xưa đã hi sinh vì dân vì nước. Tiếp theo, ban tổ chức  tiến hành lễ gióng trống – chiêng khai hội và dâng hương khóa lễ chúc phúc đầu năm cầu Quốc thái dân an. Ngay trong ngày khai hội mỗi năm đều có khoảng  trên 4.000 lượt khách về hành hương. Hội chùa Hang Son thường sẽ kéo dài đến hết tháng 3 Âm lịch.
              
         Hiện nay, Đền Hang Son và Chùa Hang Son chỉ còn lại 4 bia đá gồm: Ba chữ Hán khắc trên vòm hang “Bão Phúc Nhan” triều vua Trần Hiến Tông (1329); Di tích – Danh thắng Hang Son nằm trong dãy núi Chu Cốc: có động Hang Son, Hang Ma, diện tích khoảng 800m2, đi thẳng đường trong hang đến Chùa Thượng. Đây cũng là một hang đá tự nhiên thông với Hang Son ở độ cao 200m, so với mặt biển; có núi và Hang Xếp Bằng, diện tích khoảng 50m2; có núi Hang Hổ, diện tịch 200m2; có núi Dê, ở độ cao trên 500m so mặt nước biển, trên đỉnh núi Áng Tiên… Trong hang động có nhiều nhũ đá với muôn hình vạn trạng kỳ thú; trên núi chó nhiều cây lâu niên. Xung quanh các dãy núi có dòng sông Ma chạy vòng quanh. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống là dòng sông Đá Bạc chảy từ Tây sang Đông… Tất cả đã tạo thành Cụm di tích lịch sử – văn hoá và Danh thắng Hang Son với phong cảnh sơn thuỷ hữu tình sánh ngang với thắng cảnh Chùa Hương – Động Hương tích (tỉnh Hà Tây) và Tam Cốc – Bích Động (tỉnh Ninh Bình). Văn bia trong Đền có đoạn ví “hiếm có nơi nào sánh được”.

Chùa Đồng – Quần thể danh thắng Núi Yên Tử

Núi Yên Tử là môt dải núi nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, thuộc xã Thượng Yên Công – Uông Bí, Quảng Ninh. Núi Yên Tử hiện còn lưu giữ hệ động thực vật đa dạng, phong phú được công nhận là khu bảo tồn thiên nhiên. Quần thể Yên Tử hiện nay còn lưu giữ rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Yên Tử trở thành trung tâm phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông về ở ẩn tại núi, tu hành và lập nên một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam-Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Quần thể danh thắng núi Yên Tử cao 1068m so với mực nước biển, với khoảng 6000m đường bộ, trải qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi để đến với chùa Đồng. 

Chùa Đồng mới được các nghệ nhân đúc đồng ở Ý Yên, Nam Định thực hiện dựa theo mẫu chùa Dâu Keo (Thuận Thành, Bắc Ninh), nặng 70 tấn, dài 4,6m, rộng 3,6m và chiều cao từ cột nền tới mái là 3,35m. Các hoa văn, họa tiết trên đầu đao, bệ mái mang phong cách đời Trần. Toàn bộ xà ngang, xà dọc đều đúc hình đầu rồng. Bốn đầu chùa hình mái vẩy, như bong sen đang nở vươn lên, như một ngôi chùa gỗ, sau đó vận chuyển và lắp đặt trực tiếp trên đỉnh Yên Tử. Hai bên chùa có giá treo chuông, khánh. Sau chùa là nhà tăng cho sư an trú lo Phật sự của chùa. Từ lâu, chùa Đồng không chỉ mang ý nghĩa về kiến trúc mà xét trên phương diện tín ngưỡng lâu đời, nó còn mang ý nghĩa tâm linh đặc biệt. Chùa Đồng Yên Tử đặc biệt hơn các công trình đúc kim loại khác trên thế giới, kể cả về kiến trúc cũng như điêu khắc mỹ thuật. Mang vẻ đẹp vừa khỏe khoắn, vừa mềm mại, bay bổng và niềm tự hào của người dân Quảng Ninh, người dân Việt Nam.

Chùa Đồng là ngôi chùa cao nhất của Núi Yên Tử và là đặc trưng của Yên Tử. Chùa còn có tên gọi là Thiên Trúc Tự tọa lạc ở độc cao 1068m so với mực nước biển. Chùa Đồng (Yên Tử) được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là ngôi chùa đồng lớn nhất và nằm ở độ cao nhất cả nước. 

Chùa Ba Vàng

          Nếu đã ghé qua Uông Bí thì chắc chắn bạn phải ghé thăm Chùa Ba Vàng – ngôi chùa chính điện lớn nhất Đông Nam Á. Đây là một điểm đến vô cùng hấp dẫn không chỉ cho các phật tử mà còn đối với các du khách tham quan.

          Chùa Ba Vàng có tên cổ là Bảo Quang Tự (“ánh sáng quý”) được xây dựng vào năm 1676. Chùa Ba Vàng toạ lạc trên lưng chừng núi Thành Đẳng, ở độ cao 340m so với mặt nước biển. Chùa nằm trên một vị trí rất đẹp ở phía tây thành phố Uông Bí, mặt trước là sông, mặt sau tựa lưng vào núi, ở hai bên được bao phủ bởi rừng thông xanh ngát. Chùa Ba Vàng có mạch phong thủy bắt nguồn từ chùa Đồng (Yên Tử) với địa hình hạ đoạn tạo thành thế thanh long trùng điệp chầu về bên trái, bạch hổ hùng vĩ phục xuống bên phải. 

         Chùa Ba Vàng là sơn môn thuộc Thiền viện Trúc lâm Yên Tử trải qua 4 lần trùng tu mang vẻ diện mạo diễm lệ, hùng vĩ như ngày nay. Vẻ ngoài mới mang đặc trưng của một ngôi chùa Bắc Bộ, bao gồm 3 gian bái đường, 1 gian hậu cung, gồm các ban thờ Phật, thờ Mẫu và thờ Đức Ông. Toà “Đại hùng bảo điện” (chùa chính) có quy mô lớn nhất với kiến trúc 2 tầng. Chùa Ba Vàng còn có nơi thờ Tam bảo và trống độc mộc lớn nhất Việt Nam. Hệ thống tượng pháp trong chùa được làm bằng gỗ có kích thước lớn như tượng Tam thế, Quan âm, ông Thiện, ông Ác… đều cao từ trên 2m trở lên. Đặc biệt, pho tượng A Di Đà là một trong các pho tượng Phật bằng gỗ thuộc loại lớn nhất miền Bắc.Kế tiếp chùa chính là các khu như khu giảng đạo, trai phòng, thư viện, lầu chuông… được thiết kế hài hoà, bố trí liên hoàn, tạo thuận lợi cho các nhà sư hành đạo và phật tử đến chùa lễ Phật.Trong chùa còn có một giếng cổ nước không bao giờ cạn. Tương truyền, ai mà uống được nước lấy từ giếng sẽ khỏe mạnh và khỏi bách bệnh. Bởi vậy, nhiều Phật tử, du khách thập phương tới đây đều muốn được uống nước lấy từ giếng lên.

       Đến thời điểm này, tuy chùa vẫn đang tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện tiếp một số hạng mục công trình nhưng đã toát lên vẻ thanh tịnh và bình yên nơi chốn Phật đài. Du khách, Phật tử dù chỉ một lần chiêm bái chùa Ba Vàng đều được đắm chìm trong khung cảnh nên thơ, trữ tình và cảm nhận được không khí linh thiêng của chốn đạo thiền nhà phật. Đây không chỉ là chốn dừng chân cho những người đến để học Phật, hiểu Phật và tu Phật, mà còn hội đủ các yếu tố của một điểm du lịch sinh thái, văn hoá -lịch sử và là điểm đến của tăng ni, phật tử, du khách thập phương trong nước và ngoài nước.

        Đặc biệt về đêm khung cảnh rực sáng ánh đèn của chùa vô cùng đẹp, tạo cảm giác chốn thần tiên của viên ngọc sáng giữa đỉnh non cao. Khung cảnh nên thơ nhân tạo ấy thể hiện sự yêu cái đẹp, sáng tạo và lòng hứng phật thành kính của người dân Uông Bí.

Chùa Hoa Yên

Cũng là một ngôi chùa nằm trong quần thể núi Yên Tử, chùa Hoa Yên nằm trên lưng chừng núi ở độ cao 516m, là ngôi chùa to nhất và đẹp nhất nên còn gọi là chùa Cả. Chùa được dựng từ đời Lý vốn có tên là Vân Yên ( nghĩa là mây khói), nhưng từ khi vu Lê Thánh Tông lên vãn cảnh chùa thấy sắc hoa nở rộ vô cùng đẹp mắt nên đổi tên thành Hoa Yên và giữ đến tận ngày nay. Đây là ngôi chùa chính của cả hệ thống chùa ở Yên Tử. Trên 700 năm trước chùa chỉ là một thảo am để Đe Nhất Tổ Trần Nhân Tông giảng đạo. Sau được xây dựng lại và tu bổ khang trang hơn. Hiện nay, chùa mang kiến trúc vô cùng độc đáo và tinh tế.

Xét về mặt tâm linh, chùa Hoa Yên là nơi giao hội của trục linh (trục tung) và trục tú (trục hoành),hai bên tả hữu vươn ra như hai tay ngai (tả long thanh, hữu bạch hổ).

Ngoài những tượng, bia, tháp cổ, chùa Hoa Yên còn lưu lại những di vật quý giá: gạch hoa cúc, ngói mũi hài kép thời Trần, những bức phù điêu chạm trên đá hình sư tử,đầu rồng, bệ tượng tam thế, chậu hoa, tay vịn tầng bậc, đá trang trí kiến trúc (khối chạm rồng cuộn, khối chạm nghê). Các hiện vật có công năng và niên đại khác nhau. Đầu rồng có niên đại sớm hơn cả – khoảng cuối thế kỷ XII, chiếc tay vịn thành bậc chạm sóc mang phong cách nghệ thuật Lê Sơ – thế kỷ thứ XV.

Các hiện vật còn lại đều mang dấu ấn nghệ thuật thời Lê Trung Hưng – thế kỷ XVII cùng những bát hương đá, độc bình, các đồ sành sứ … lưu lại dấu ấn vàng son của một thời đã qua, của bao thời đại kế tiếp tôn dựng chùa Hoa Yên – ngôi chùa trung tâm, chùa Cả của Khu Di tích Yên Tử. Tại chùa có quả chuông được đúc vào thời Minh Mệnh thứ 14 ghi lại bài Minh do ngài Diên Chính Nguyễn Siêu Phàm soạn, ngợi ca Thượng hoàng Trần Nhân Tông và Yên Tử Sơn, có đoạn viết:Dịch nghĩa chữ Hán: “Từng nghe, tiếng chuông khánh có ích lợi làm tỉnh giấc mê, tiếng   Phía sau chùa Hoa Yên là chùa Phổ Đà Quan Âm Bồ Tát, nay chỉ là phế tích (chưa khảo cổ để lập hồ sơ di tích). Bê cạnh chùa có 6 ngọn tháp còn khá nguyên vẹn. Ở phía trên chùa không xa, dưới tán của 4 cây tùng cổ là tháp độ nhân Mỹ Lệ. Tháp được xây bằng gạch tráng men xanh.

Chùa Hoa Yên cùng với toàn bộ hệ thống chùa Yên Tử nằm hài hòa giữa thiên nhiên hùng vĩ là một dẫn chứng rõ nét về sự dung hợp hai quan niệm đạo và đời của dân tộc ta.   

Chùa Phổ Am

Chùa Phổ Am (thường được gọi là Chùa Am) có tên chữ là Am Vân Tự, tọa lạc trên núi Duật Vân, thuộc phường Bắc Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chùa Am cách trung tâm thành phố khoảng gần 3km.

Chùa được xây dựng vào năm 1705, đời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh, do ông Trần Văn Bách, là Lý trưởng của vùng phát tâm cùng với nhân dân góp công của để xây dựng nơi thờ Phật. Theo đó, Phổ là rộng lớn, Am là sự hiểu biết, tên Phổ Am có thể suy ra là sự hiểu biết rộng.

 Theo truyền thuyết, cùng lời kể của các cụ cao tuổi: vua Trần Nhân Tông khi lên tu ở núi Yên Tử, đã từng đi qua nơi đây, thấy cảnh sắc non nước kiều diễm, hữu tình, trên đỉnh núi có những đám mây hoà quyện với ba màu sắc, do vậy ngài đã đặt tên cho ngọn núi là Duật Vân.

Chùa Phổ Am quay theo hướng Đông Nam, được xây dựng trên mảnh đất cao. Trước cửa chùa là một khe suối nhỏ chảy qua. Chùa lại nhìn về phía sông Uông tạo nên thế âm dương hòa hợp tạo sự sinh trưởng cho muôn loài. Chính vì vậy, cây cối trong khuôn viên chùa quanh năm tươi tốt, tạo cảnh sắc vô cùng linh thiêng, huyền bí và tôn kính chốn cửa Phật.

Theo nghiên cứu, Chùa Phổ Am từng là một công trình kiến trúc cổ. Các mảng chạm khắc và hệ thống tượng Phật trong chùa được tạo tác tinh xảo nhờ bàn tay khéo léo của các nghệ nhân. Hiện nay chùa mang dáng dấp của kiến trúc thời Nguyễn, còn lưu giữ được hệ thống tượng Phật có giá trị, mang phong cách thời Nguyễn như: tượng Tam thế phật, Thích ca sơ sinh, Quan âm toạ sơn, A di đà, Quan âm chuẩn đề, Di lặc, Địa tạng…

Trong hơn 300 năm tồn tại, chùa Phổ Am đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Hiện nay, Khu tam bảo chính điện  được trùng tu lại toàn bộ trên diện tích 350m2, thiết kế theo hình chữ Công, bao gồm 3 gian tiền đường, 2 gian ống muống và 3 gian hậu cung. Tiền đường và hậu cung mái được thiết kế chồng diêm 2 tầng. Nhà tổ có diện tích 300m2, thiết kế hình chữ Đinh, gồm Tiền đường và Hậu cung. Nhà mẫu thiết kế theo hình chữ Nhị, trên diện tích 300m2, được xây theo phong cách kiến trúc cổ.

Trong khuôn viên chùa, còn có tượng Phật tổ Như Lai cao 2,5m, nặng trên 10 tấn, được làm bằng đá ngọc thạch.

Đặc biệt mỗi năm, vào thời khắc giao thừa chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, bà con nhân dân, Phật tử đều quy tụ về đây để cùng nhà chùa tụng thời kinh, hồi hướng cầu quốc thái dân an, tiễn đưa năm cũ và đón chào năm mới. Lễ hội chính của chùa nhằm ngày 18 và 19 tháng giêng âm lịch.

Cùng với các danh thắng khác, chùa Phổ Am đã và đang góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá,  đời sống văn hoá tinh thần, và du lịch tâm linh của nhân dân trên địa bàn thành phố Uông Bí.

 

Chùa Quỳnh Lâm

Kết thúc cuộc hành trình, hãy ghé thăm Chùa Quỳnh Lâm – thị xã Đông Triều trên đường về. Đây là một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Quảng Ninh, một di tích thuộc cụm phát tích nhà Trần, nằm trong các bộ phận hợp thành khu di tích Núi Yên Tử ( Uông Bí – Quảng Ninh). 

Chùa Quỳnh Lâm có kiến trúc cổ độc đáo thuộc vào loại bậc nhất của Quảng Ninh. nền móng của 09 công trình kiến trúc và 06 khoảng sân, được kết nối liên hoàn tạo thành một quần thể gồm nhiều loại hình kiến trúc. Xen kẽ các kiến trúc Tiền Đường, Trung Đường, Hậu Đường là các hành lang và 6 khoảng sân hình chữ nhật, được xây dựng bằng đá xanh, nằm đăng đối, cân xứng nhau theo chiều dọc và chiều ngang, tạo không gian hài hòa cho các công trình.[7] 29 nền móng tháp có niên đại kéo dài từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Tháp có niên đại sớm nhất là tháp Tuệ Đăng, và cũng là ngôi tháp còn lại nguyên vẹn nhất trong vườn tháp. Một số cấu kiện của tháp đá thời Trần do thiền sư Pháp Loa xây dựng để chứa xá li của Tĩnh tuệ Giác hoàng Trần Nhân Tông. Hiện nay chùa còn giữ được các di vật cổ đó là tấm bia đá cao 2,5m dựng trước chùa được trang trí hình rồng uốn lượn mềm mại, đặc trưng cho rồng thời Lý., cùng các thành bậc rồng bằng đá xanh, gần một trăm tảng đá kê chân cột, chạm cánh sen, đầu rồng bằng đất nung, khánh đá. Đặc biệt là một góc bệ đá có hình chim thần Garuda

Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch, nhưng khách du xuân đến chùa trong suốt ba tháng xuân, với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa về đây dâng hương, lễ Phật.

Be the first to post a comment.

Add a comment